Wednesday, March 26, 2008

Phát biểu của kỹ sư Phương Nam - Đỗ Nam Hải trong buổi hội ngộ các thành viên của Phong trào yểm trợ Khối 8406 - tháng 3/2008.

Kính thưa quý vị và các bạn,Tôi là Phương Nam - Đỗ Nam Hải đang phát biểu từ thành phố Sài Gòn - Việt Nam. Hôm nay tôi rất vui mừng và hân hạnh được Ban tổ chức cuộc hội ngộ trên diễn đàn Paltalk này mời tham gia phát biểu. Tôi xin được trình bày tóm tắt 5 vấn đề sau đây:

1) Tuyên ngôn 8406 và Khối 8406 đã giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của đồng bào Việt Nam và quốc tế:Như chúng ta đã biết, bản Tuyên Ngôn 8406 với tên gọi đầy đủ của nó là Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006, được phổ biến trước công luận trong và ngoài nước vào ngày 8/4/2006. Với số thành viên ban đầu là 118 người dân Việt Nam ở trong nước và chỉ một thời gian ngắn, sau khi bản Tuyên ngôn trên được công bố thì Khối 8406 đã nhận được sự ủng hộ và tham gia mạnh mẽ của hàng ngàn, rồi hàng chục ngàn đồng bào Việt Nam ở cả trong và ngoài nước. Đồng thời, các nhà hoạt động chính trị, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ và những người dân bình thường khác của nhiều quốc gia trên khắp thế giới như: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Nhật Bản, Úc, Canada, … cũng đã nhiệt liệt chào mừng và ủng hộ cho tinh thần và nội dung của bản Tuyên ngôn này. Ca ngợi tinh thần can đảm của các thành viên Khối 8406 đã dám dũng cảm đứng lên đương đầu với chế độ độc tài toàn trị hiện nay, để đấu tranh giành lại các quyền tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam. Theo tôi, sở dỹ Tuyên ngôn 8406 và Khối 8406 nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ như vậy là bởi vì: Thứ 1, đây là lần đầu tiên trong suốt quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ giành lại tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam đã có một bản văn được khởi phát đi từ trong nước, do hàng trăm người dân trong nước cùng công khai ký tên thật, địa chỉ thật tham gia. Thứ 2 là bản Tuyên ngôn ấy đã nói lên được một cách rõ ràng, dứt khoát ý chí và nguyện vọng khát khao của dân tộc Việt Nam hôm nay là: giành lại các quyền tự do, dân chủ đã bị Đảng cộng sản Việt Nam, qua nhiều thế hệ ngang nhiên tước đoạt của dân tộc trong suốt gần 63 năm qua (2/9/1945 – 3/2007). Thứ 3 là Tuyên ngôn 8406 đã vạch rõ được thực trạng của những nỗi bất công, đói nghèo, tụt hậu, đạo đức xã hội xuống cấp, … ở Việt Nam; vạch rõ được nguyên nhân gốc đã gây ra thực trạng ấy. Đó là chế độ chính trị độc tài, độc đảng toàn trị, phản động và phản dân tộc không chấp nhận sự cạnh tranh trên chính trường ở Việt Nam hiện nay. Thứ 4 là Tuyên ngôn 8406 đã chỉ ra được một đường lối đúng đắn của cuộc đấu tranh này, đặt chúng trong mối quan hệ với những điều kiện, hoàn cảnh quốc tế ngày nay. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một thành tựu phát triển đột biến rất đáng phấn khởi và tự hào của phong trào dân chủ Việt Nam nói chung và của Khối 8406 nói riêng. Tuyên ngôn 8406 là sự kế thừa và phát triển một cách có chọn lọc những thành tựu cả về lý luận và thực tiễn đã đạt được trước đó, nay được tổng hợp, đúc kết lại để quay lại phục vụ và phát triển phong trào đấu tranh dân chủ. (xin đọc tham khảo: http://www.danchu2006.com/PageHtm/Khoi8406/TuyenNgonDanChu2006.htm)

2) Phản ứng từ phía nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam:Trước khi bản Tuyên ngôn này ra đời thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, thông qua bộ máy công an Việt Nam đã tìm mọi cách để ngăn chặn nó. Họ ráo riết thực hiện những hoạt động dò la, rồi dọa dẫm, xông vào khám nhà, tạm giữ người, tịch thu máy tính, khóa điện thoại, cắt Internet và đã có cả những trận đòn thù độc ác, hèn hạ. Nhưng thực tiễn đã chứng minh rằng: họ đã thất bại! Hốt hoảng trước tình hình phát triển đột biến có nguy cơ đe dọa đối với chế độ độc tài, độc đảng này; ngay sau khi Tuyên ngôn 8406 được công bố và Khối 8406 được thành lập thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã mở một chiến dịch đàn áp khốc liệt phong trào dân chủ Việt Nam vào cuối năm 2006 và suốt năm 2007 vừa qua. Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế (Human Rights Watch) có trụ sở chính tại New York – Hoa Kỳ đã gọi chiến dịch này là "… một trong những vụ triệt phá tồi tệ nhất từ suốt 20 năm qua đối với các nhà bất đồng chính kiến, hoạt động một cách hoà bình…". Có biết bao người của phong trào dân chủ trên khắp mọi miền đất nước đã bị bắt bớ, kết án tù, giam lỏng, theo dõi, hạch sách, khủng bố,… cả về thể xác lẫn tinh thần trong đó có rất nhiều thành viên của Khối 8406. Chiến dịch đàn áp trên một mặt nói lên bản chất của nhà cầm quyền Việt Nam là không hề thay đổi. Họ luôn luôn muốn dùng bạo lực để đập tan mọi tiếng nói phản kháng, cho dù là rất ôn hòa. Nhưng mặt khác, nó cũng nói lên rằng: phong trào dân chủ Việt Nam nay đã trưởng thành và phát triển sâu rộng trong xã hội. Phong trào đã được nâng từ tự phát lên có tổ chức và đang hàng ngày hàng giờ tích cực, chủ động tấn công vào dinh lũy cuối cùng của chế độ độc tài, độc đảng ở Việt Nam. Bạo lực đã một lần nữa lại bị thất bại thảm hại. Bạo lực càng lạm phát thì lương tâm dân tộc và lương tâm nhân loại càng được thức tỉnh, các lực lượng dân chủ Việt Nam ngày càng mạnh lên trong khi các thế lực độc tài, phản dân chủ ngày càng bị cô lập và suy yếu đi. Họ càng hung hãn thì tội ác của họ càng thêm nặng và bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của họ càng bị phơi bày trước công luận trong nước và quốc tế. Không ai khác, chính họ sẽ phải trả lời về những tội ác trời không dung, đất không tha mà họ đã trực tiếp gây ra cho dân tộc trong suốt bao năm qua, khi dân tộc này chuyển mình!

3) Hai nhiệm vụ chiến lược của phong trào dân chủ Việt Nam:Theo tôi phong trào chúng ta cần phát huy hơn nữa những kết qủa đã đạt được để thực hiện tốt 2 nhiệm vụ chiến lược bao gồm cả nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài. Hai nhiệm vụ đó là:
1) Đấu tranh giành lại nền tự do, dân chủ thực sự cho dân tộc.
2) Xây dựng một nước Việt Nam mới, trên nền tảng của một xã hội dân sự, đa nguyên, đa đảng và pháp trị. Nhiệm vụ thứ 2 là bước phát triển liên tục, khi mà nhiệm vụ thứ nhất đã được hoàn thành. Phong trào dân chủ Việt Nam ngay từ bây giờ đã cần phải có sự chuẩn bị những cơ sở, nền tảng vững chắc cho việc thực hiện nhiệm vụ thứ 2 này. Và chúng ta một lần nữa khẳng định: sẽ không thể và không bao giờ xây dựng được một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong điều kiện chế độ độc tài, độc đảng toàn trị hiện nay! Vì lẽ đó hơn lúc nào hết, chúng ta cần nỗ lực đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ thứ nhất, trên tinh thần và nội dung mà bản Tuyên ngôn 8406 đã nêu ra được phần lớn, với những tiêu chí cần thiết, căn bản nhất. Đó là:- Mục tiêu đấu tranh là phải thay thế được một cách triệt để chế độ chính trị từ nhất nguyên, độc đảng, phản dân chủ và phản dân tộc hiện nay sang chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng và pháp trị, nhằm xây dựng một xã hội dân sự tiến bộ trong tương lai. Trong quá trình đấu tranh của mình, có thể có những lúc, những nơi, phong trào sẽ đặt những mục tiêu đấu tranh thấp hơn sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nhưng chúng ta phải xác định rõ việc thay thế chế độ chính trị như nêu ở trên phải là mục tiêu cao nhất cần làm của phong trào dân chủ Việt Nam. Nếu mơ hồ trong mục tiêu đấu tranh này, chúng ta dễ bị sa vào đường lối đấu tranh cải lương, nửa vời rất tai hại. - Phương pháp đấu tranh là hoà bình, bất bạo động. Phong trào đã có những tấm gương chuyển hóa thành công của các nước cựu cộng sản ở Đông Âu như: Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hungary,… và các nước phi cộng sản khác như: Philippines, Indonesia, … trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây động viên, cổ vũ. Và chúng ta tin tưởng rằng: nó nhất định cũng sẽ được áp dụng thành công ở Việt Nam. Phong trào dân chủ Việt Nam trung thành tuyệt đối với phương pháp này và coi đó là vấn đề có tính nguyên tắc trong việc nhận thức và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Bằng những cố gắng của mình, chúng ta sẽ truyền niềm tin tất thắng ấy đến với dân tộc trong giai đoạn đấu tranh sắp tới.- Lực lượng đấu tranh là tuyệt đại bộ phận dân tộc Việt Nam ở cả trong và ngoài nước cùng chủ động đứng lên. Họ bao gồm mọi tầng lớp: trí thức, văn nghệ sỹ, công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên, viên chức, doanh nhân, tiểu thương, các cựu chiến binh, người về hưu, v.v… Đồng thời, phong trào dân chủ Việt Nam tranh thủ tối đa sự ủng hộ của thế giới tiến bộ hôm nay. Đây là sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. - Động lực của cuộc đấu tranh là tầng lớp trí thức tiến bộ - Những người không chịu thờ ơ, vô cảm trước những nỗi đau của đồng loại để chăm lo cho bản thân và gia đình mình. Tầng lớp này vừa là động lực vừa là lực lượng tiên tiến của phong trào dân chủ Việt Nam. - Đối tượng đấu tranh là các thế lực bảo thủ nắm thực quyền trong Đảng cộng sản Việt Nam. Thế lực này đang thống trị một cách hết sức bất lương lên đầu, lên cổ dân tộc. Chính họ chứ không phải là ai khác đã và đang tìm mọi cách câu giờ để cố duy trì chế độ chính trị độc tài, độc đảng hiện nay nhằm kéo dài sự đặc quyền, đặc lợi cho bản thân và gia đình họ. Ngoài ra, còn có những nhóm lợi ích ăn theo, nói leo nhà cầm quyền và loại này cũng bất lương không kém. Chúng tìm đủ mọi cách câu kết với các quan chức lớn, nhỏ trong hệ thống cầm quyền ở Việt Nam để hàng ngày, hàng giờ bòn rút, hủy hoại và tàn phá đất nước này, dân tộc này. Vì vậy, những “liên minh ma quỷ” ấy sẵn sàng chà đạp lên mọi quyền lợi của dân tộc, bất chấp sự tụt hậu và sự suy vong của cả giống nòi. - Ý nghĩa của cuộc đấu tranh này là chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa; cái tiến bộ nhất định phải thắng cái lạc hậu, phản động và chí nhân phải thắng bạo tàn! Quá trình xây dựng lực lượng cho phong trào dân chủ, với những tiêu chí nêu trên cũng chính là quá trình vừa tích cực tạo ra thời cơ, vừa nhanh nhạy chớp lấy thời cơ khi nó đến. Với tất cả những gì đã và đang diễn ra ở Việt Nam, với hoàn cảnh thế giới thuận lợi hôm nay, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng: thời cơ của một cuộc xuống đường vĩ đại của toàn dân tộc để giành lại tự do, dân chủ cho Việt Nam nhất định sẽ đến trong một tương lai không xa. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm gì để thúc đẩy cho thời cơ ấy đến càng sớm càng tốt?
4) Nhận thức quy luật để xây dựng và thúc đẩy thời cơ dân chủ:Theo tôi, quy luật của tất cả các cuộc cách mạng nói chung từ xưa đến nay, cũng như quy luật của các cuộc cách mạng dân chủ trên thế giới diễn ra gần đây thì thời cơ, đồng thời cũng là những điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của những cuộc cách mạng ấy (mà phong trào dân chủ Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ) là:
1. Giai cấp thống trị độc tài thối nát, bị lung lay đến tận gốc rễ; chúng bối rối không thể và cũng không đủ sức nắm quyền cai trị như trước được nữa.
2. Có một phong trào được chuyển biến thành cao trào đấu tranh trong quảng đại bộ phận dân tộc, quyết không cam chịu ách áp bức thêm nữa. Họ đã phải chịu bao cảnh nhục nhã, bất công, đói nghèo; họ bị tước đoạt các quyền tự do, dân sinh, dân chủ, dân quyền; họ căm tức nhà cầm quyền đến cực điểm và nay thì họ quyết vùng lên đấu tranh. Bởi vì, họ hiểu rằng: nếu cứ ngồi yên thì chính bản thân họ cùng gia đình cũng sẽ chết. Đất nước họ sẽ ngày càng bị tụt hậu, dân tộc họ sẽ mãi mãi sống kiếp lầm than, nô lệ ở ngay trên Tổ quốc mình.
3. Có 1 đường lối đấu tranh đúng đắn do tầng lớp sỹ phu dân tộc thức tỉnh tập hợp, tổ chức và lãnh đạo. Trong khoảng 20 năm trở lại đây, thế giới đã vui mừng chứng kiến nhiều sự kiện của hàng chục nước đã tiến hành các cuộc cách mạng dân chủ thành công bằng phương pháp hòa bình, bất bạo động; chuyển hoá các nước này từ độc tài sang dân chủ. Và thế giới cũng lại không hề chứng kiến một quốc gia nào vốn từ dân chủ bị biến thành độc tài. Điều này cho phép chúng ta đưa ra kết luận: “Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại ngày nay là thời đại sụp đổ của tất cả các chế độ độc tài trên phạm vi toàn thế giới”. Tuy nhiên, việc nhận thức xu thế và các quy luật khách quan là một chuyện, còn việc thúc đẩy cho những quy luật, xu thế ấy phát triển sao cho phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh của thực tiễn Việt Nam lại đòi hỏi những nỗ lực chủ quan của cả dân tộc. Nếu như tất cả những người tốt đều lặng im và không liên hiệp lại? Nếu như tất cả những người lương thiện đều làm ngơ trước những nỗi đau của dân tộc thì điều gì sẽ xảy ra? Theo tôi, câu trả lời thật rõ ràng: các xu thế và quy luật kia dù là đã xuất hiện nhưng một khi tất cả đều lặng im hay chần chừ chờ người khác làm thay mình thì cái “thời cơ chín muồi” cũng sẽ chẳng bao giờ đến. Và khi ấy, dân tộc Việt Nam sẽ một lần nữa lại bị lỡ chuyến tàu văn minh của nhân loại, như đã từng hơn một lần bị lỡ một cách đau xót trong quá khứ. Không! Chúng ta phải hành động để thúc đẩy cho thời cơ trở thành thời cơ chín muồi! Dân tộc phải hành động để biến cho phong trào trở thành cao trào dân chủ!
5) Những đề nghị cụ thể: a) Phong trào tiếp tục đấu tranh giành lại 4 quyền tự do căn bản:
1) Quyền tự do Thông tin và Ngôn luận.
2) Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng; bầu cử và ứng cử.
3) Quyền tự do hoạt động Công đoàn độc lập và quyền Đình công chính đáng.
4) Quyền tự do Tôn giáo theo đúng tinh thần và nội dung của các bản Tuyên ngôn, Công ước của Liên Hiệp Quốc về các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa mà nhà nước Việt Nam đã ký kết, nhưng không hề tôn trọng.
b) Tiếp tục xây dựng vững chắc sự liên minh, liên kết trong – ngoài nước, giữa các lực lượng dân tộc đang đấu tranh vì sự nghiệp dân chủ hóa đất nước.
c) Đẩy mạnh công tác quốc tế vận, làm rõ và làm kịp thời sự vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam ở các diễn đàn trên thế giới.
d) Đồng bào hải ngoại hãy về nước để kề vai sát cánh cùng với đồng bào trong nước trong công cuộc đấu tranh dân chủ hiện nay. Qua đó, tình tự dân tộc sẽ được phát triển, và cũng qua đó làm tăng năng lực đấu tranh trên các mặt đấu tranh nóng bỏng hiện nay. Đó là: chống tham nhũng, lãng phí, tệ nạn mua quan, bán chức, bộ máy hư hỏng, nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh, sự ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông và tai nạn lao động tăng cao; vấn đề dân oan, công nhân đình công, lao động Việt Nam bị bán rẻ và bị lăng nhục, bảo toàn đất tổ, …Cuối cùng, xin kính chúc quý vị và các bạn cùng gia đình luôn mạnh khỏe. Xin chúc buổi hội luận của chúng ta hôm nay thành công tốt đẹp!Phương Nam – Đỗ Nam Hải. Thành phố Sài Gòn - Việt Nam - tháng 3/2008.

Monday, March 24, 2008

Thực chất về Lễ Tam Hợp 2008 tại VN

Thấu Tâm Can
(LÊN MẠNG Thứ sáu 21, Tháng Ba 2008)

Chỉ cần nhìn vào những câu vấn đáp giữa Cẩm Vân với Ông Nguyễn Thế Doanh (1), Trưởng ban Ban Tôn Giáo chính phủ; Chỉ cần đọc qua mục III- Ý nghĩa Tổ chức Đại lễ Phật Đản LHQ 2008 của Tổng Thư Ký Đại Lễ (2); Chỉ cần nhìn vào Thông Bạch hướng dẫn tổ chức của Hội đồng Trị sự Trung ương (3), là biết được Thực Chất tại sao Cộng Sản đứng ra đăng cai tổ chức Đại Lễ Tam Hợp Phật Đản 2008 dưới chính sách, chủ trương, đường hướng chỉ đạo của đảng và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam.
Tội nghiệp cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trên cả nước, là con cờ do Cộng Sản dựng lên từ năm 1981 tới nay, luôn cầm đầu và chạy hiệu cho sách lược tôn giáo của Đảng và chính quyền nhà nước Cộng Sản Việt Nam.
Tội nghiệp cho Phật Giáo trên cả nước, từ Bắc tới Nam, từ thôn quê tới thành thị, từ chùa lớn tới chủa nhỏ đã, đang, sẽ học tập thông suốt, thi đua tổ chức, khẩn trương thực hiện, sao cho vượt yêu cầu, vượt chỉ tiêu, để được chấm điểm, ban khen danh dự là cá nhân hay cán bộ, đơn vị nhỏ hay đơn vị lớn, thực thi và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ định.
Qua 7 lãnh vực (tôi dùng chữ lãnh, không dùng chữ lĩnh) của Ông Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, cũng là Trưởng ban Điều phối Quốc gia, nêu ra, đó cũng chính là của đảng Cộng Sản chỉ thị, chúng ta thấy gì? Phật Giáo cả nước chỉ đóng vai trò phụ thuộc tô phết sao cho rực rỡ, huy hoàng, hoành tráng 4 điểm trước, có tính trang trí, phô trương, trình diễn về Lễ tân giao tế, Trang trí khánh tiết, Nghi lễ văn hóa, Nội dung. Còn 3 điểm sau then chốt quan trọng, dưới sự chỉ đạo, bao thầu của đảng qua các cơ quan nhà nước, đó là: Tuyên truyền, An ninh, Hậu cần -- tài chánh (tôi dùng chữ chánh, không dùng chữ chính). Về mặt hai chữ Tuyên truyền, chúng ta đã biết đó là cái gì? Về mặt hai chữ An ninh, chúng ta cũng biết đó là cái gì? Còn bốn chữ Hậu cần tài chánh, đã do các cơ quan nhà nước đảm nhiệm rồi, không biết nhà nước xuất tiền từ đâu? Xuất từ ngân quỹ quốc gia đã vơ vét của dân chết đói miền Bắc từ 1954 - 1975, vơ vét toàn dân Việt Nam trên cả nước từ ngày gọi là giải phóng miền Nam 30-4-1975 cho tới nay? Xuất từ cái túi không đáy của đảng viên, cán bộ cộng sản từ trung ương xuống hạ tầng do tham nhũng, ăn chận, cắt xén, hối lộ, bóc lột qua mọi hình thức? Hậu cần tài chánh đã có như thế rồi, Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương còn hướng dẫn "quý Ban Trị sự các Tỉnh, Thành Hội, Ban Đại diện Phật giáo các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chư Tôn đức trụ trì các tự viện, Tăng Ni và Phật tử hoan hỷ phát tâm cúng dường công đức vào việc tổ chức" để làm gì? Tăng Ni, Phật tử được bao nhiêu vị có hầu bao dư thừa, rủng rỉnh, vinh thân phì da, còn tuyệt đại đa số tương chao chưa đủ qua ngày, cơm áo gạo tiền thống khổ, điêu linh, nghèo đói nghiệt ngã đã 54 năm trường đằng đẵng của người dân miền Bắc và 33 năm dài ròng rã của người dân miền Nam.
Qua 6 điểm Ý Nghĩa Tổ Chức của Tổng Thư Ký Đại Lễ Tam Hợp, điểm thứ 2.2 nêu: "Đây là cơ hội quý báu nhất để thiết lập sự hiểu biết, cảm thông, hợp tác và tháo mở tất cả các gút kết giữa các Giáo Hội Phật Giáo của cộng đồng Việt kiều trên khắp thế giới đối với Chính phủ Việt Nam và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam". Thật sự khẳng định và dứt khoát rõ ràng? Nhưng lại quá thiển cận, hạn hẹp. Tại sao chỉ là vấn đề của Giáo Hội Phật Giáo cộng đồng Việt kiều hải ngoại, chứ không phải trong và ngoài nước đối với chế độ Cộng Sản? Tại sao không phải là của các tôn giáo đối với đảng cầm quyền Cộng Sản? Tại sao không phải là của toàn thể dân tộc đối với tập đoàn Cộng Sản Việt Nam?
Tuy nhiên phải đặt rõ ràng cụ thể: Ai nói chuyện với ai? Ai tháo mở với ai? Ai hiểu biết, cảm thông, hợp tác với ai? Gút kết là gút kết nào? Đã có nghị định, nghị quyết, sắc lệnh, văn bản nào có tính pháp qui do Bộ chính trị Đảng Cộng Sản đưa ra, do Chính phủ Cộng Sản chỉ thị ban hành, do Quốc hội Cộng Sản nhắm mắt gật đầu, biểu quyết thông qua? Ngay cả những văn bản pháp quy như thế (nếu có) mà chưa dễ gì làm việc, giải quyết với người Cộng Sản, đừng nói viển vông như người đi trong mộng, người ngủ trong mơ! Phải không thưa Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương, Chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, Ông Lê Mạnh Thác hình nộm Trưởng Ban Tổ Chức, Đại Đức múa rối vai trò Tổng Thư Ký, một số Phật tử trong Giáo Hội PGVN từ Trung Ương xuống cho tới tỉnh thành, quận huyện, phường xã, nông thôn, trên khắp hang cùng ngõ hẽm đất nước Việt Nam?
Chính vì người dân Việt Nam mê ngủ, chính vì mọi thành phần dân tộc Việt Nam mê ngủ, nên không nhìn thấy, không hiểu biết, không nắm được bản chất và bộ mặt thật, bàn tay lông lá của người Cộng Sản, từ khi họ hoạt động đến ngày ra đời của đảng Cộng Sản Dông Dương 1930? Cái gọi là Cách Mạng Mùa Thu tháng 8 năm 1945? Cái gọi là ngày tuyên bố tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 tại Ba Đình Hà Nội đẻ ra Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa? Cái gọi là Mật trận Việt Minh với 9 năm toàn dân chống Pháp để rồi nuốt trọn Miền Bắc?
Không thấy sau Hiệp định Genève 1954, thành phần nào tập kết ra Bắc, thành phần nào cài lại nằm ổ nằm vùng miền Nam, du kích nông thôn, cán bộ nội ngoại thành, vẽ lên cái bóng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam? Không thấy hội nghị bàn tròn bàn méo Paris kéo dài bao nhiêu năm trường 1967 - 1973, với Tổng công kích Tết Mậu Thân, mồ chôn sống tập thể dân lành tại Huế 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 sát hại hàng loạt người dân bỏ chạy trên Đại Lộ Kinh Hoàng tỉnh Quảng Trị? Không thấy Hiệp Định Paris 1973 ký kết chưa kịp ráo mực, Cộng Sản đã công khai giành dân, chiếm đất, dựng cờ trên toàn Miền Nam? Không thấy Ủy Ban Liên Hợp 4 bên 2 năm ròng rã 1973 - 1975 cho tới đầu tháng 3 băng qua tháng 4, chiếm tỉnh Phước Long, tấn công Ban Mê Thuột chiếm trọn cao nguyên, đưa toàn lực tổng tấn công Miền Nam, mà gọi là giải phóng Miền Nam, đại thắng mùa xuân 1975?
Đối với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do Cộng Sản chủ động dựng lên từ 1981 đến nay 2008. Đã 27 năm trường, Cộng Sản chỉ đạo ra sao, thực thi những gì, chế độ xin - cho, tập dợt trong hậu trường, vị Tăng Ni nào được kết nạp, bị loại bỏ, thuộc mọi cấp thượng hạ tầng? Ngay cả việc được ở chùa, được phép xuất gia, được cho học các trường cơ sở, được đi thọ giới, được bổ nhiệm trụ trì, được nắm những vai trò chức sắc, cấp thấp quận huyện lên tới cấp cao tỉnh thành, trung ương, không lẽ tất cả đều bị mù, bị điếc, bị câm, bị khuyết tật dị dạng, không nghe, không thấy, không biết?
Quí vị trong GHPGVN đã, đang làm việc từ 1981 đến nay, có nhìn thấy, có nghe, có biết người Cộng Sản đã giết hại, bức tử, ức chế, cầm tù, quản thúc bao nhiêu Tăng Ni tín đồ? Người Cộng Sản đã tịch thu, biến chế bao nhiêu cơ sở đất đai, tự viện, chùa chiền chủ quyền của Phật Giáo? Nhìn rộng hơn, các tôn giáo khác như Thiên Chúa, Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành? Thấy xa hơn những người bị giết, bị tù, bị tội, bị trù dập, bởi nói lên tiếng nói dân chủ, tự do, nhân quyền, tôn giáo, báo chí, đi lại, thông tin? bởi nói lên tiếng nói "không có gì quí hơn độc lập tự do", nhưng không như con vẹt những người Cộng sản, về văn minh, tiến bộ, hội nhập thế giới, nhân bản lương tri loài người?
Đảng và người Cộng Sản Việt Nam độc quyền cứu nước, giữ nước, đánh đuổi ngoại xâm bằng núi xương biển máu của dân tộc Việt Nam ròng rã từ 1930 tới nay, nhưng ai đã bán nước, cắt xén một phần lãnh thổ, không phận, hải phận dâng cho quan thầy Trung Quốc bởi một Hiệp ước vào năm 1999, một hiệp ước vào năm 2000, vẫn còn nằm trong vòng bí mật, không dám công bố và không có quyền quyết định của người dân Việt Nam?
Năm sự kiện vẫn còn dai dẳng:
1. Những nhà đấu tranh dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, kẻ thì trở thành những người tù lương tâm, dù có kết án hay không kết án, kẻ thì bị quản thúc, ức chế vô thời hạn dù có vi phạm hay vô tội vạ, đang còn đầy dẫy trên khắp đất nước Việt Nam.
2. Người dân oan bị cướp đất, cướp ruộng, cướp nhà, họ đã tự động kéo nhau ăn dầm nằm dề, phơi sương gội nắng, hứng gió dầm mưa từ nhiều năm nay tại cung đình Hà Nội, hay tại cửa ngỏ Sài Gòn. Người Đảng viên thứ thiệt của Cộng Sản tự nguyện làm đầy tớ nhân dân, đã, đang, ứng xử ra sao với dân oan ai ai cũng thấy, mà gọi là đầy tớ và cán bộ trung thành?
3. Vào tháng 12-2007, khi Trung Cộng công khai thành lập huyện Tam Sa sáp nhập quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vào tỉnh Hải Nam, người Cộng Sản Việt Nam đã làm gì để gọi là bảo vệ mảnh dư đồ 5000 của ông cha để lại, hay là tiếp tay với Trung Cộng bằng cách bắt bớ, khủng bố, săn đuổi thanh niên, sinh viên, học sinh, một số thành phần khác biểu tình chống đối sự cướp đoạt trắng trợn của Trung Cộng trước các Tòa Sứ Quán của họ tại Sài Gòn và Hà Nội?
4. Vấn đề Nhà thờ Lớn và Tòa Khâm Sứ tại Hà Nội, người Thiên Chúa Giáo đòi hỏi, tổ chức cầu nguyện lan rộng từ Hà Nội, tại Sài Gòn, một số tỉnh khác, trong vòng vài tháng qua (tháng 01,02-2008) thì được chính quyền Cộng Sản dụ khị, dàn xếp to nhỏ tới đâu?
5. Vào tháng 2-2008, Ủy ban Nhân dân TPHCM (Sài Gòn) chính thức trao giấy phép dự án Trung tâm Tài chánh Việt Nam cho tập đoàn đầu tư Berjaya - Mã Lai, sẽ được xây cất trên khu đất của Việt Nam Quốc Tự thuộc chủ quyền của Phật Giáo. Đây lại là vấn đề mới mẻ, mọi động tĩnh hãy còn nóng bỏng, ...???
Trong vòng hơn một thập kỷ qua, đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam đã gọi là đổi mới, cởi mở, bang giao, hội nhập vào thế giới văn minh, xã hội tiến bộ loài người, nâng cao tự do, dân chủ, nhân quyền. Người Cộng Sản Việt Nam đã nhiều lần đi ra khỏi đất nước Việt Nam để giao lưu, tổ chức, tham dự các cuộc hội hộp, hội nghị cấp vùng, cấp quốc tế. Chắc chắn đã thấy những thành phần đối lập phi chính phủ và người dân tự động đứng ra tổ chức biểu tình, phản kháng, chống đối, nêu kiến nghị, đòi hỏi một cách ôn hòa, bất bạo động tại các địa điểm đó. Họ không cần phải xin khép, được phép, cho phép. Họ không bị qui cái tội phản động, phản quốc, vi phạm quản lý hành chánh, đi lại. Họ không phải bị kết án chống phá nhà nước, lật đổ chính phủ. Họ không bị buộc tội tiếp tay các thế lực phản động, ngoại bang, nước ngoài.
Vụ Dân Oan, Hoàng Sa Trường Sa nêu trên, vụ dân chủ, nhân quyền, tôn giáo nêu trên, người dân oan, thanh niên, sinh viên, học sinh, những nhà đấu tranh đã bị cầm tù, bắt bớ, khủng bố, hù dọa, trù dập, tra khảo, đánh đập, bởi độc đảng trị, công an trị của người cộng sản Việt Nam. Vì mức độ không lớn nên sức tác động không bằng sắt máu kinh hoàng, dã man tàn bạo, chết chóc hàng loạt như vụ Thiên An Môn của mười mấy năm về trước, không bằng xe tăng súng đạn, xương thịt nát tan, máu và mắt nhục nhằn, như vụ Lhala - Tây Tạng mới diễn ra 10-3-2008 làm cho hơn 80 người bị chết, hàng trăm người bị thương, bị bắt, bởi nhà nước Cộng Sản Trung Quốc, nhưng nhà tù cả nước, sắt máu cả nước, luật rừng cả nước, thì bốn quốc gia Cộng sản sau cùng: Cộng Việt, Cộng Tàu, Cộng Bắc Hàn, Cộng Cuba đâu có khác?
Vụ Nhà thờ Lớn, Tòa Khâm Sứ Hà Nội, được giải quyết tới đâu hay đang tạm chìm xuồng? Vụ Việt Nam Quốc Tự, ai là Tăng Ni, Phật tử, nhất là quí vị thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam huênh hoang 27 năm đóng vai khá thành công và là bộ mặt nổi sơn phết nhiều màu cho chế độ, đồng thời quí vị thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất "chưa chết nhưng bị chôn, còn sống nhưng bị khai tử", có làm nổi, làm được, ít nhất như Thiên Chúa Giáo đã làm đối với Tòa Khâm Sứ Hà Nội, như Tin Lành đã làm ở Tây Nguyên, một số tỉnh phía Bắc hay tại Sài Gòn, như Hòa Hảo đã làm tại An Giang, các tỉnh phía Nam? Còn thành phần gọi là Gia Đình Phật Tử Việt Nam có thể hiện được một chút khí phách như Thanh niên Sinh viên Học sinh trong vụ Hoàng Sa, Trường Sa?
Sự kiện Đại Lễ Tam Hợp vào tháng 5-2008, chính quyền cộng sản đang chỉ thị kế hoạch, trình duyệt phê chuẩn, từng dự án, từng khâu một, các thành phần ngoại vi - Mặt Trận, các cơ quan nhà nước, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam các cấp - đang khẩn trương, đôn đáo trương hiệu, chạy việc vắt giò, cúi lòn tâng bốc, giành giựt thi công, chắc chắn Đại Lễ sẽ được diễn ra hoành tráng, nguy nga, lộng lẫy, tưng bừng, vượt yêu cầu, vượt chỉ tiêu. Nhưng chung quanh những nơi sẽ được tổ chức, nhất là địa điểm chính tại Hà Nội, để đánh bóng tự do tôn giáo, bảo kê sách lược chế độ, nếu có các cuộc biểu tình, chống đối, phản kháng của những người không là kẻ lệ thuộc nhà nước, cũng không là kẻ tiếp tay ngoại bang, cũng không là kẻ đánh phá lật đổ chế độ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhìn họ ra sao? Người cộng sản Việt Nam đối phó ra sao? Hay chính sách, chủ trương, đường lối đã có sẵn, sẽ ra tay tàn bạo giống như đối với Vụ Dân Oan, các nhà dân chủ tôn giáo? Bao vây, cô lập, chận đứng như vấn đề Hoàng Sa Trường Sa, hay nhẹ nhàng nhưng thâm độc như vụ Tòa Khâm Sứ, hoặc sẵn sàng KHỐC LIỆT KINH HOÀNG SẮT MÁU VÀNG SAO ĐỎ CỜ như Thiên An Môn Trung Quốc, Lhasa Tây Tạng???
Tháng 3 - 2008
Thấu Tâm Can
Chú thích:
(1) dưới đây là nguyên văn bài viết do Cẩm Vân phỏng vấn Ông Nguyễn Thế Doanh, Trưởng ban Ban Tôn Giáo chính phủ, Trưởng ban Ban Điều Phối Quốc Gia, Tổ chức Đại lễ Phật Đản LHQ 2008 tại Việt Nam, được đăng trên trang 4 của Báo Giác Ngộ số 422 ngày 28-2-2008, cố nhiên được phô diễn trên 600 tờ báo, hệ thống truyền thanh và các trang mạng điện tử toàn cầu dưới cái dù nhà nước:
Cẩm Vân: Với tư cách là Trưởng ban Ban Điều phối Quốc gia tổ chức Đại lễ Phật Đản LHQ 2008 tại Việt Nam, xin ông cho biết ý nghĩa của Việt Nam đăng cai tổ chức Đại lễ Phật Đản LHQ 2008?
Ông Nguyễn Thế Doanh: Thể hiện chính sách đối ngoại, chính sách tôn giáo đúng đắn của nhà nước Việt Nam là Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. Đồng thời luôn tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo hài hòa trong lòng dân tộc, vì sự phát triển bền vững của công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.
Thể hiện sự trưởng thành của GHPGVN qua 27 năm tồn tại và phát triển, đủ sức phối hợp với các cơ quan khác tổ chức một hoạt động quốc tế lớn, sẵn sàng hội nhập với tổ chức tôn giáo quốc tế và các tầng lớp nhân dân khác trên thế giới, tôn vinh những giá trị hòa bình, nhân bản, vị tha của giáo lý Phật Đà trong xã hội hiện đại, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày một phồn vinh hạnh phúc.
Qua đó, thể hiện ý thức chủ động, ủng hộ và thực hiện các hoạt động vì hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc do LHQ đề xướng, với tư cách là một nước thành viên của LHQ.
Cẩm Vân: Phật Đản LHQ là một Lễ hội Văn hóa, Tôn giáo, vậy thưa Ông chủ đề chính của Đại lễ 2008 tại Việt Nam này là gì? Tính hội nhập quốc tế ra sao?
Nguyễn Thế Doanh: Chủ đề chính là Phật Giáo và xã hội công bằng dân chủ văn minh. Xây dựng xã hội công bằng dân chủ văn minh là một mục tiêu lớn của dân tộc Việt Nam trong đó có Phật Giáo. Không phải chỉ của riêng Phật Giáo, càng không phải riêng Phật Giáo Việt Nam, mà còn là một mục tiêu cao quí chung của tất cả các tôn giáo, của cả loài người, vì công bằng, dân chủ, văn minh, vừa là giá trị lớn lao, vừa là mục tiêu sống còn của cả nhân loại, mà từ thế hệ này qua thế hệ khác, con người cần gìn giữ phát huy và thậm chí phải đấu tranh để giành lấy. Các tôn giáo nói chung, Phật Giáo nói riêng, thông qua các hoạt động tôn giáo đặc trưng để tôn vinh các giá trị nhân bản của con người và qua đó cũng để khắc sâu thêm ý nghĩa văn hóa của tôn giáo chân chính trong xã hội. Tất cả các yếu tố ấy lại được diễn ra trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, nên tự nó có tính hội nhập quốc tế rất cao.
Cẩm Vân: Xin Ông cho biết một vài nét khái quát về công tác chuẩn bị tổ chức Đại lễ Phật Đản 2008 tại Việt Nam.
Nguyễn Thế Doanh: Dưới sự chỉ đạo của chính phủ, công việc chuẩn bị đang được các cơ quan chức năng của nhà nước phối hợp, với GHPGVN và IOC, thực hiện khẩn trương thông qua các hoạt động của Ban Điều Phối Quốc Gia. Về cơ bản có 7 lĩnh vực cần phải thực hiện là:
1. Lễ tân giao tế2. Trang trí - Khánh tiết3. Nghi lễ Văn hóa4. Nội dung5. Tuyên truyền6. An ninh7. Hậu cần - Tài chính.
Từ lĩnh vực 1 đến lĩnh vực 4: chủ yếu do GHPGVN và IOC thực hiện. Các cơ quan nhà nước được điều phối tới để hỗ trợ.
Từ lĩnh vực 5 đến lĩnh vực 7: chủ yếu là do các cơ quan nhà nước đảm nhiệm. GHPGVN và IOC được điều phối tới để phối hợp thực hiện.
Có 7 Tiểu Ban được hình thành và phối hợp thực hiện các lĩnh vực trên.
Đề án tổng thể đã được xây dựng xong. Các Tiểu Ban đang xây dựng đề án chi tiết, nói chung là công việc rất nhiều, nên cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức, và phải thật khẩn trương.
Cẩm Vân: Chúng tôi được biết, đây là một Đại Lễ được tổ chức trong khuôn khổ LHQ mà Việt Nam là nước chủ nhà, Ông có thể cho biết một số khách mời, sẽ có bao nhiêu quốc gia và Đoàn Phật Giáo tham dự.
Nguyễn Thế Doanh: Dự kiến có khoảng hơn 500 Đoàn với gần 1000 khách từ hơn 70 quốc gia được mời tới dự Đại Lễ. Khách mời trong nước và các đại biểu là Phật tử, khoảng 4000 người nữa cũng sẽ tham dự Đại Lễ này.
(2) (dưới đây là bài viết về Ý Nghĩa Ngày Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc của Tổng Thư Ký Đại Lễ Tam Hợp, đăng ở trang 22&23 trên Báo Giác Ngộ số Xuân ngày 22-1-2008 (vì bài khá dài, chỉ trích nguyên văn mục III):
III. Ý NGHĨA TỔ CHỨC
2.1. Ý nghĩa tâm linh: Thiết lập nhịp cầu tâm linh và học hỏi kinh nghiệm Phật sự của hơn 500-600 Phái đoàn Phật giáo thế giới từ 70-100 quốc gia ; đồng thời thực hiện các nghi thức hành trì ngắn của các tông môn pháp phái Phật giáo trên khắp thế giới.
2.2. Ý nghĩa Giáo hội: Đây là cơ hội quí báu nhất để thiết lập sự hiểu biết, cảm thông, hợp tác, và tháo mở tất cả các gút kết giữa các GHPG của cộng đồng Việt kiều trên khắp thế giới đối với Chính phủ Việt Nam và GHPGVN. Để làm được việc này, nên chủ động gởi thư mời các vị lãnh đạo tối cao hoặc đại diện của các GHPG của các cộng đồng Việt kiều ở khắp nơi trên thế giới với chính danh của GH họ đang hành hoạt ở hải ngoại tham dự Đại lễ Phật Đản tại nước ta...
2.3. Ý nghĩa văn hóa: Tưởng niệm ĐLPĐLHQ như ngày quốc tế về tôn giáo và văn hóa, đồng thời kêu gọi ý thức bảo tồn và phát huy di sản văn hóa thế giới, trong đó bao gồm các di sản văn hóa Phật giáo cấp thế giới và quốc gia.
2.4. Ý nghĩa học thuật: Tổ chức Hội thảo Phật giáo thế giới I (International Buddhist Conference) với các hoạt động nghiên cứu, học thuật và Tuyên bố Hà Nội.
2.5. Ý nghĩa chính trị: Tạo hình ảnh tốt đẹp đối với bạn bè thế giới về đất nước Việt Nam công bằng, dân chủ, văn minh, và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, thân thiện, hòa hợp và đoàn kết. Qua đó, nâng tầm vị trí của Việt Nam trên thế giới, thiết lập bang giao và hữu nghị với nhiều quốc gia.
2.6. Ý nghĩa kinh tế: Biến năm 2008 thành "Năm Việt Nam" với các hoạt động phát triển du lịch và đầu tư kinh tế vào Việt Nam thời hậu WHO.
(3) dưới đây, trích nguyên văn vài đoạn trong Thông Bạch, Hướng dẫn Tổ chức Đại lễ Phật Đản LHQ 2008, của Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, đăng ở trang 6&7 trên Báo Giác Ngộ số Xuân, ngày 22-1-2008:
Để chào mừng Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc 2008 - Phật lịch 2552, do Chính phủ nước CHXHCNVN đăng cai, và do Ủy ban Tổ chức Quốc tế và GHPGVN đồng tổ chức trọng thể tại thủ đô Hà Nội.
Quý Ban Trị Sự, Ban Đại diện Phật giáo tỉnh thành lập Ban Tổ chức Đại lễ Phật Đản (trên cơ sở Ban Tổ chức của Trung ương) do Trưởng ban Trị sự hay Chánh đại diện tỉnh làm Trưởng ban Tổ chức.
Lập kế hoạch tổ chức Đại lễ Phật đản LHQ 2008 của địa phương, và trình Ủy ban Nhân dân tỉnh - thành để đăng ký và hỗ trợ trong việc tổ chức.
Lập danh sách, tổ chức đưa phái đoàn đại diện Ban Trị sự Tỉnh - Thành hội Phật giáo tham dự Đại lễ Phật Đản LHQ 2008 tại Hà Nội từ ngày 13 đến 17-5-2008 (sẽ có thông báo hướng dẫn thủ tục lập danh sách tham dự).
Phối hợp với Ủy ban Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Sở Văn hóa Thông tin tại các tỉnh thành, treo cờ Phật giáo và biểu ngữ chào mừng Đại lễ Phật Đản LHQ bằng song ngữ Việt -- Anh tại các khu vực chính của tỉnh, thành.
Tổ chức triển lãm văn hóa phẩm Phật giáo tại các Ban Trị sự tỉnh thành và các tự viện lớn, bao gồm: Di sản văn hóa Phật giáo, pháp khí, tranh ảnh nghệ thuật, thư pháp, nêu bật được bản chất Phật giáo nhập thế và đồng hành với dân tộc.
Trên cơ sở kế hoạch tổ chức Đại lễ Phật Đản đã được lập, quý Ban đăng ký việc tổ chức Đại lễ với Ủy ban Nhân dân Tỉnh, Thành để được hỗ trợ.
Liên hệ với các cơ quan truyền thông để đăng ký tổ chức phát thanh chương trình Phật Đản và phát hình tại Đài Truyền hình Trung ương, Truyền hình các Tỉnh, Thành.
Nếu địa phương nào có khó khăn trong việc tổ chức, quý Ban nên báo cáo gấp về Văn phòng Trung ương Giáo hội để Giáo hội cử đoàn về hỗ trợ và tháo gỡ những vướng mắc nếu có.
http://www.vnn-news.com/article.php3?id_article=4168