Wednesday, March 18, 2009






Bao giờ nguồn ODA Nhật bản trở lại?

Nguồn hỗ trợ ODA Nhật bản - chi viện chính thức của chính phủ Nhật bản cho nhân dân ta dưới hình thức cho vay dài hạn với lãi xuất ưu đãi, đã bị cắt từ đầu tháng 12-2008. Trên thực tế, nguồn chi viện ấy đã bị chính phủ Nhật treo lại ngay từ giữa tháng 8-2008, khi vụ ăn hối lộ của quan chức Việt nam do công ty Nhật PCI (Pacific Consultant Institute) đưa, lên đến hơn 2 triệu đôla, bị tiết lộ.
Chính phủ Nhật tỏ ra rất hào phóng trong viện trợ cho Việt Nam. Đã 2 năm nay, ODA Nhật bản lên đến mức trên 1 tỷ đôla/năm, luôn dẫn đầu, vượt rất xa mọi nước khác, bao gồm một loạt dự án lớn nhất đất nước về đường xá, cầu cống, hải cảng và khu công nghiệp mũi nhọn, đòi hỏi vốn lớn, kỹ thuật cao.
Như các nước khác, hỗ trợ Việt nam qui mô lớn, Nhật bản cũng mong các công ty, nhà thầu của Nhật sẽ nhận được những gói thầu lớn, theo đúng pháp luật, có lợi chính đáng cho cả 2 bên. Nhiều lần quốc hội Nhật, báo chí Nhật tỏ ra lo ngại, giận dữ khi một số hỗ trợ ODA lấy từ tiền thuế dân Nhật đóng, giúp vài nước châu Phi bị cắt xén do tệ quan liêu và tham nhũng, làm tha hoá bộ máy cai trị.
Bộ kế hoạch và đầu tư và ngành giao thông vận tải Việt nam hiểu rất rõ vụ hối lộ của PCI cho các quan chức Việt nam gây nên tổn thất và trở ngại to lớn ra sao. Các công trình trọng điểm lớn nhất bị dở dang, đình trệ, vốn bị cạn, công nhân không việc.
Có thể nói từ thủ tướng, phó thủ tướng, bộ trưởng, thứ trưởng, ngành giao thông, giới làm kinh tế cho đến người dân trong nước đều trông mong - mỗi người do động cơ khác nhau - vốn ODA Nhật bản (dự tính 900 triệu đôla cho năm 2009 này), được nối lại rất sớm.

Từ trái sang phải: cựu thủ tướng Nhật Yasuo Fukuda, Hoàng Thái tử Nhật Naruhito, Đại sứ hữu nghị đặc biệt (tài tử) Sugi Ryotaro
Đã có nhiều thông tin lạc quan theo hướng ấy.
Nào là từ tháng 1-2009, cựu thủ tướng Nhật Yasuo Fukuda thăm Hànội đã ủng hộ việc sớm nối lại nguồn ODA.
Nào là Hoàng Thái tử Nhật Naruhito mới thăm Việt Nam tháng trước cũng tuyên bố sẽ thúc đẩy việc này. Rồi cũng trong dịp này, tài tử trứ danh Sugi Ryotaro với danh nghĩa "đại sứ hữu nghị đặc biệt", cũng chung một ý định, sớm nối ODA Nhật.

Mới đây hãng tin Nhật Kyodo và Việt nam thông tấn xã cùng đưa tin là văn bản về nối lại ODA sẽ có thể ký giữa 2 bên cuối tháng 3, nghĩa là chỉ trong một, hai tuần lễ.
Vậy bà con ta đã có thể trông chờ điều tốt đẹp sắp tới trong quan hệ Nhật - Việt?
Nên thận trọng, kẻo lại bị bất ngờ.
Một số nhà báo Nhật bản bạn cũ của tôi, từ Tokyo và Bangkok, cho biết ý nghĩ của họ trong việc này. Thông tin điều này có thể là có ích.

Họ cho rằng "quả bóng vẫn ở phía chân Việt nam"; "rằng hồ sơ vẫn còn trên bàn của bộ chính trị cộng sản Việt nam"; "rằng mọi sự còn phụ thuộc ở Việt nam có thái độ ra sao đối với bị cáo ăn hối lộ"; "rằng nhiều công ty, nhà thầu Nhật bản lô-by (vận động hành lang) mạnh để sớm nối lại ODA, nhưng ngành ngoại giao và lập pháp ở Nhật vẫn rất nghiêm, họ còn cân nhắc kỹ ".
Một anh bạn Nhật chân thật: "đáng tiếc, thủ tướng của Việt nam hình như ít am hiểu tập quán ngoại giao và tâm lý ngoại giao, ít hiểu văn hoá Nhật chúng tôi trong vụ này".
Trao đổi một hồi trên điện thoại viễn liên, tôi mới vỡ lẽ các bạn Nhật muốn nói gì.
Các bạn Nhật muốn nhắn rằng, với nước Nhật, cần gõ cửa cho đúng. Vì xã hội Nhật phân công rạch ròi, không ai đạp lên chân ai, dễ ngã cả loạt.

Cái kiểu Hànội tranh thủ cựu Thủ tướng Fucuda, rồi tranh thủ Hoàng thái tử Naruhito, săn đón đại sứ hữu nghị đặc biệt Sugi Ryotaro là rất ít hiệu quả. Bởi lẽ, theo tập quán Nhật, thủ tướng đã ra đi sẽ không can thiệp vào việc của thủ tướng kế nhiệm; mọi việc đã bàn giao xong. Hoàng thái tử chỉ lo chuyện lễ nghi và từ thiện, không được, không dám làm gì khác, kỵ nhất là chuyện kinh tế, đấu thầu, tiền bạc, tòa án. Còn Đại sứ "hữu nghị loại đặc biệt", ông ta chỉ có nhiệm vụ cười, cười rộng rãi và dễ dãi, cúi đầu gật gật xã giao cho thật dẻo, và tối kỵ lấn sân sang vị đại sứ toàn quyền chuyên nghiệp. Cứ yên chí cả tin ở các vị này, khéo mà lầm cửa.
Cái "không hay" của thủ tướng Dũng, có thể nói cái "hớ hênh không nên có" của ông Dũng còn là làm mất lòng một nhân vật Nhật bản trực tiếp tham gia quyết định cắt và nối nguồn ODA Nhật cho Việt nam.

Đại sứ Nhật bản tại Hànội, Mitsuo Sakaba
Đó là đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật bản ở Hànội, Mitsuo Sakaba.
Ông M.Sakaba là một nhân vật nhiều triển vọng của ngành ngoại giao Nhật bản. Ông được đào tạo rất bài bản, thành thạo Anh, Pháp, Hoa ngữ... Ông từng là đại sứ Nhật ở UNESCO - Paris trong 2 năm, rồi về Tokyo làm người phát ngôn Bộ ngoại giao Nhật. Các nhà báo Anh, Pháp, Đức, Mỹ... hồi ấy rất "mê" những buổi họp báo của ông Sakaba, bởi ông bao giờ cũng nắm được thực chất câu hỏi của các nhà báo quốc tế để trả lời ngay thật, pha chút hóm hỉnh, thông hiểu, trái ngược với những lưỡi gỗ trơ tráo, tẻ nhạt, nói lấy được của đồng nghiệp ở Bắc kinh và Hànội."
Ông mới đến Hànội tháng 3-2008, đã nổi lên trong giới ngoại giao như một đại sứ năng động, thích văn hoá, ưa thể thao, mê nghiên cứu ẩm thực, đặc biệt rất ham đi những vùng sâu, vùng xa, nặng lòng cứu giúp những vùng nghèo, dân nghèo.
Mới đây, khi ODA lớn bị ngừng, ông chuyển hướng, đích thân xông xáo đôn đốc hơn 30 dự án nhỏ bé, cò con, như dự án xây trường tiểu học xã Mường Khên tỉnh Hoà bình, như dự án giao thông nông thôn cho xã Hương Lâm tỉnh Bắc Giang, mỗi nơi gần 100 ngàn đôla, hoàn thành nhanh, gọn, cùng chính quyền sở tại kiểm soát kỹ, không bị xà xẻo...
Ấy vậy mà ông Dũng không những không tranh thủ ông đại sứ Nhật, lại còn trách móc, đến độ như xúc phạm ông một cách công khai, trước mặt các quan chức và nhà báo quốc tế, trước mặt cả các quan chức Nhật, khi ông vắng mặt.
Theo gợi ý của các bạn Nhật, tôi tìm lại bản tin VN Thông tấn xã ngày 10-2-2009, như sau:
"Chiều 9-2, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp Đại sứ hữu nghị đặc biệt Nhật bản-Việt nam Sugi Ryotaro. Đại sứ Sugi vui mừng thông báo với thủ tướng việc Nhật bản sẽ sớm khôi phục lại vốn ODA dành cho Việt nam". Ở đoạn cuối: "Thủ tướng cho rằng nếu chỉ vì nghi vấn (!) một cá nhân của Việt nam trong vụ án tham nhũng liên quan đến vốn ODA mà Nhật bản đơn phương chấm dứt viện trợ ODA cho Việt nam là đáng tiếc (!)".
Với Hoàng Thái tử Naruhito, ông Dũng còn đi xa hơn, mà mách rằng: "việc phía Nhật đơn phương cắt ODA không bàn bạc trước, ngay giữa cuộc họp quốc tế lớn về đầu tư đầu tháng 12-2008 đã làm ảnh hưởng đến tình hữu nghị Nhật - Việt ".
Ông Dũng hẳn biết rõ - như ông đại sứ Sakaba nói với các báo ở Hànội từ đầu tháng 12 - rằng việc ngừng ODA là theo lệnh trực tiếp từ thủ tướng Nhật đương nhiệm Taro Aso, đại sứ rất tán thành, vì nhiều nghị sỹ Nhật và dân đóng thuế Nhật bất bình sâu sắc về sự việc xảy ra.
Tốt nhất là thủ tướng Việt nam tỏ lời chân thành xin lỗi vì rõ ràng chính phủ Việt nam có trách nhiệm trong quản lý vốn ODA. Không xin lỗi, lại còn trách cứ ngược lại thủ tướng và đại sứ Nhật, và đi nói riêng với với Hoàng thái tử Nhật và với đại sứ hữu nghị Nhật bản, đổ lỗi cho phía Nhật đã gây nên ảnh hưởng xấu trong quan hệ Nhật - Việt! Thật quá đáng. Người đứng đầu chính phủ mà làm công tác đối ngoại kỳ cục, dại dột, không biết điều như vậy.
Với các nhà báo Nhật, ông Dũng còn đi xa hơn, phàn nàn rằng: "đến nay Nhật bản vẫn chưa cung cấp cho phía Việt nam những chứng cứ của vụ việc..."(!)
Các nhà báo Nhật chỉ mỉm cười.
Vì họ biết rõ, chính phía Nhật đã 6 lần gửi từng tập tài liệu hàng nghìn trang gồm: khẩu cung của cơ quan điều tra, lời khai viết của 4 bị cáo Nhật, băng ghi âm trước toà án, lời tả chi tiết về 4 lần giao tiền cho quan chức Việt nam, lên đến 2 triệu 6 đôla, lại còn cử cán bộ điều tra, toà án và bộ tư pháp Nhật sang tận Việt nam để trình bày thêm.

Họ biết rất rõ, bộ tư pháp Nhật đã yêu cầu phía Việt nam trả lời cho 23 câu hỏi, chủ yếu nhất là: - cho đến tháng 12-2008, các bị cáo Việt nam đã nhận hay không nhận có ăn hối lộ của PCI, nếu nhận là bao nhiêu lần, lên đến bao nhiêu? Họ tẩu tán đi đâu? có những ai dính đến vụ án? họ khai và thú nhận những gì rồi?
số tiền ấy được thương lượng ra sao, giữa 2 bên, do ai thương lượng, ngả ngũ ra sao? thủ đoạn giao nhận?
số tiền ấy đã chia cho bao nhiêu người, những ai, chức vụ khi ấy làm gì? thu hồi lại được bao nhiêu?
phía Việt nam bao giờ xử kẻ bị cáo, và cần phía Nhật hợp tác thêm những gì? các ông đánh giá ông Huỳnh Ngọc Sỹ ra sao trong vụ ăn hối lộ này?
Hàng loạt câu hỏi ấy đặt ra gần 4 tháng nay, và vẫn còn chờ trả lời.

Huỳnh Ngọc Sỹ bị bắt giam ngày 12-2-2009
Các bạn nhà báo Nhật cho rằng phía Việt nam đã có những việc làm tuy chậm nhưng đáng hoan nghênh. Đó là lập Uỷ ban hỗn hợp Nhật - Việt cùng nhau thảo thể lệ quản lý nghiêm vốn ODA, thanh tra chất lượng công trình, kiểm tra việc chi tiêu, lập thêm một cơ quan giám sát đấu thầu; bắt tạm giam 2 ông Huỳnh Ngọc Sỹ và Lê Qủa và hứa hẹn sẽ xét xử nghiêm minh vụ án này.

Báo Nhật cũng ghi nhận bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư Võ Hồng Phúc sang Nhật tháng 2-2009 đã thông báo chính phủ Việt nam đã xếp vụ án ăn hối lộ của PCI là một vụ án trọng điểm, có nghĩa là sẽ được uu tiên xét xử một cách công khai, minh bạch, đúng luật. Phía Nhật chờ từng ngày. Bao giờ?

Báo chí Việt nam vẫn còn bị cấm ngặt không được nói đến vụ án PCI, không được tìm hiểu và đưa tin gì về vụ án đã thành trọng điểm này, cũng như phải quên vụ án PMU18 đi, dù nó đã kéo lê thê hơn 3 năm. Nhà báo chỉ được phép đưa những tin lạc quan, một chiều, rằng cuối tháng 3, hai chính phủ sẽ ký nghị định thư nối lại ODA đang mong chờ; rằng tháng 4, ông tổng bí thư Nông Đức Mạnh sẽ sang Tokyo giải quyết mọi vướng mắc cho thông suốt ở mức cao nhất với thủ tướng Taro Aso; khi ấy dòng chảy ODA có thể chảy vào thông suốt và dồi dào.
Nhưng vẫn còn một trở ngại. Một trở ngại, không nhỏ chút nào. Hãy nghe ông Đại sứ Mitsuo Sakaba nói với phóng viên VietnamNet chiều ngày 10-3": Chúng tôi đang theo dõi rất chặt chẽ sự kiện xử lý vụ án ăn hối lộ của công ty Nhật PCI ". Ông nói thêm, vẫn với giọng rất nghiêm nghị: "Tôi đang chờ xem hành động xử lý cụ thể vụ án hối lộ này của phía Việt Nam".

Ai nấy đều biết chính quyền Việt nam đã đánh tráo, từ vụ án "ăn hối lộ của công ty PCI" Nhật thành ra một vụ án hoàn toàn khác là: "lấy nhà công cho công ty Nhật PCI thuê rồi chia tiền cho viên chức cơ quan". Về tư pháp, đây là xét xử án "không đúng vụ việc", "không đúng người", "không đúng tội danh". Đánh tráo vụ án ăn hối lộ lên đến 2 triệu 6 đôla bằng một vụ án hoàn toàn khác, với giá trị 1.200 triệu đồng, bằng 70.000 đôla, chỉ bằng 1 phần 37 vụ án trước.
Một chính phủ, có luật pháp hẳn hoi, có toà án, có viện kiểm sát, có thanh tra chính phủ, còn có cả một ủy ban đặc trách chống tham nhũng, trong một vụ án lớn có quốc tế tham gia theo dõi chặt chẽ, lại giở trò gian lận một cách trắng trợn và lộ liễu đến vậy. Mà vẫn cứ tỉnh bơ!
Phía Nhật đang mong chờ xử vụ án PCI đúng người, đúng tội, đúng luật. Họ sẽ rất chăm chú theo dõi kỹ càng, chặt chẽ, như họ nói.
Nếu như Việt nam lờ đi, chưa xử, mua thời gian, để sau 4 tháng sẽ cho 2 bị cáo về nhà (họ chỉ bị "tạm giam" 4 tháng), hoặc xử qua loa chiếu lệ một vụ án nhỏ thay thế để làm phép, thì chắc hẳn vốn ODA sẽ vẫn còn bị treo lơ lửng. Ông Nông Đức Mạnh không thiếu lý do để nằm nhà.
Nghĩ cho cùng, nước thiếu vốn, xã hội thiếu đường, thiếu cầu, công nhân thiếu việc, nhưng các ông lớn còn có thiếu gì.
Nhưng riêng ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì đang rất cần niềm tin, cần uy tín trong vụ này. Ông phải sửa chữa những vụng về hớ hênh của một người đứng đầu chính phủ. Uy tín ông đang xuống thấp.

Năm ngoái ông Dũng đã sai lầm phát lệnh "không được xuất khẩu lúa gạo để làm dự trữ quốc gia, cân bằng lương thực", làm nông dân Nam bộ thiệt 1 tỷ đôla. Ông lại đang lao vào vụ Đác Nông nguy khốn, tiến lui đều khó. Ông lại vừa liều tiên đoán "sang tháng 5 kinh tế Việt nam sẽ khởi sắc", làm cho báo The Economist Anh ngày 5-3 mới rồi kêu lên rằng thủ tướng Việt nam bắt mạch kinh tế như một ông lang băm, rao bán dầu cù là!(nguyên văn: the prime minister Nguyên Tân Dung has predicted that the economy will start to pick up as early as May! As weeks go by, that makes him sound more like a seller of snake-oil than of snake-blood!" .
Trên cương vị Trưởng ban chống tham nhũng của chính phủ, ông Dũng hãy sắn tay áo đôn đốc việc xét xử vụ án trọng điểm PCI này, để từ trong ra ngoài nước đều thấy rõ ông là người "thật sự kiên quyết hành động chống tham nhũng", như ông cam kết.
Nguồn ODA của Nhật có sớm được chắp nối lại hay không là tuỳ thuộc ở hành động của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, ở ý chí của bộ chính trị đảng CS trong chống tham nhũng, qua sự xét đoán tỉnh táo, công bằng sau đó của chính phủ Nhật, người giữ hầu bao ODA, luôn ưu ái đến sự chậm tiến và thiệt thòi của dân Việt nam, luôn lo lắng đến một loạt dự án trọng điểm đang dở dang, lâm đại nạn.
Bùi Tín
Paris 16-3-2009

Tuesday, March 17, 2009

Ý Nghĩa Những Cuộc Phản Kháng Của Nông Dân Tại Hưng Yên, Hải Dương, Đồng Nai

Trung Điền

Từ đầu năm 2009 cho đến nay, chúng ta đã nghe nói nhiều đến một số địa danh như Hải Dương, Hưng Yên, Đồng Nai đã xảy ra những cuộc nổi dậy của nông dân chống lại các hành vi áp chế của cán bộ nhà nước Cộng sản Việt Nam.

JPEG - 28.9 kb
Nông dân Hải Dương phản đối chính quyền cướp ruộng đất

Ngày 4 tháng 1 năm 2009, hơn 1000 nông dân thuộc thôn Hoàng Xá, xã Cẩm Điền Huyện Cẩm Giang, Tỉnh Hải Dương đã chiếm trụ sở Ủy Ban nhân dân thôn Hoàng Xá để phản đối những cán bộ Thôn đã cấu kết lừa gạt nông dân cưỡng chiếm đất. Hơn 600 cảnh sát cơ động đã được điều động từ Hải Dương về ứng phó, tạo ra một cuộc xô xát dữ dội khiến cho nhiều công an bị thương.

Ngày 7 tháng 1 năm 2009, hơn 2000 nông dân tại ba xã Xuân Quang, Cao Cửu, Phùng Công thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hải Hưng đã tập trung trước văn phòng chính phủ phản đối việc nhà nước đã cưỡng chế chiếm hơn 5 ngàn hecta trồng lúa, hoa quả, cây cảnh,… với giá đền bù rẻ mạt, từ 60 ngàn đồng một mét vuông (2006) lên 135 ngàn một mét vuông (2009). Trị giá tương đương với 10 ký gạo theo giá thị trường. Trong khi chính mảnh đất này đã đùm bọc nuôi dưỡng hàng ngàn nông dân qua bao đời nay, với những huê lợi thu vào gấp nhiều lần trên mỗi mét vuông.

JPEG - 48.1 kb
Nông dân tại ba xã Xuân Quang, Cao Cửu, Phùng Công thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hải Hưng đã tập trung trước văn phòng chính phủ phản đối việc nhà nước đã cưỡng chế chiếm đất. (Nguồn: danlentieng.net)

Cũng trong ngày 7 tháng 1 năm 2009, hơn 500 người dân huyện Thanh Trì, Hà Nội đã cùng nhau phản đối công an huyện đã cưỡng chế không cho bà con nông dân nhóm chợ ngay gần khu di tích Ngọc Sơn để kiếm sống qua ngày trong tình hình kinh tế khó khăn.

Ngày 19 tháng 2 năm 2009, hơn 500 nông dân thuộc xã Long Hưng, Huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai đã tụ tập trước văn phòng Chủ tịch xã để yêu cầu ngưng việc dời hài cốt các mồ mả và chấm dứt việc cưỡng chế chiếm khu đất này để xây dựng khách sạn. Chủ tịch xã bỏ trốn kêu cảnh sát 113 xuống can thiệp, tạo ra một cuộc ẩu đả và nông dân đã phóng hỏa đốt trụ sở xã.

Ngày 4 tháng 3 năm 2009, hơn 500 nông dân thôn Phú Yên và Thôn Nhật Tiến, huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Đông, đã chống lại một nhóm cán bộ do lãnh đạo huyện Chương Mỹ phái đến để cưỡng chế đất của dân, tạo ra một cuộc náo loạn khiến giao thông tại trục đường Hà Đông – Xuân Mai bị tắt nghẽn nhiều tiếng đồng hồ.

JPEG - 54.8 kb
Người dân Xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, Hà Nội chống chính quyền cướp đất của dân. (Nguồn: Dân Lên Tiếng)

Các cuộc phản kháng của hàng trăm, hàng ngàn nông dân tại các địa phương nói trên cho đến nay vẫn còn tiếp tục. Đa số những cuộc phản kháng này liên quan đến ruộng đất - gia sản duy nhất của nông dân Việt Nam - đang gặp nguy cơ bị chiếm đoạt với giá rẻ mạt bởi sự a tòng của cán bộ Cộng sản từ điạ phương đến trung ương. Núp dưới chủ trương ‘quy hoạch hóa’, cán bộ cộng sản tại nhiều điạ phương đã cấu kết với một số nhà đầu tư lập ra một số dự án xây dựng ma để cưỡng chiếm ruộng đất, nhà cửa của người dân. Sau khi cưỡng chiếm đất xong, cán bộ địa phương lại a tòng với kẻ mạo danh đầu tư lúc đầu, đem bán giá cao hơn gấp nhiều lần cho những chủ đầu tư mới. Khi nông dân phát hiện ra việc bị chính quyền làm trung gian cưỡng chế bán giá rẻ mạt thì những cuộc phản kháng bùng nổ. Ngoài ra, cũng có những khu đất sau khi cưỡng chiếm xong, họ đã rào lại để chờ bán; trong khi nông dân bị cưỡng chiếm đất phải dời đi nơi khác mà tìm không ra nơi cư ngụ mới, ruộng đất cũ của mình vẫn tiếp tục bỏ hoang không quy hoạch như dự án đưa ra lúc đầu, họ càng thêm bất mãn và bùng nổ sự phản kháng.

Nhiều người cho đây là sự tham lam của cán bộ địa phương đã a tòng với một số con buôn địa ốc nhằm áp lực nông dân để mua lại ruộng đất của họ với giá rẻ mạt. Sự tham lam này chỉ có thể giải thích trong một vài vụ xảy ra mà thôi. Không thể nào sự tham lam của cán bộ trở thành một hiện tượng dây chuyền xảy ra ở nhiều nơi và liên tục trong nhiều năm vừa qua với phong trào dân oan khiếu kiện khắp toàn quốc. Đây phải coi là một chính sách “ăn cướp” của đảng Cộng sản Việt Nam, vừa do lòng tham, vừa nhằm triệt hạ những nguồn sống của nông dân để đẩy họ vào cuộc sống bấp bênh, phải dựa vào đảng và chính quyền để không trở thành lực lượng đối kháng.

Thay vì đi khiếu kiện theo hình thức cá nhân, nhóm, tại các văn phòng Trung ương chỉ tốn thời giờ và công sức, họ đã phản kháng bằng chính sự đứng dậy của số đông ngay tại địa phương, đối đầu trực tiếp với những cán bộ địa phương.

Đảng Cộng sản Việt Nam được hình thành và tiến chiếm chính quyền từ năm 1945 không phải nhờ vào lực lượng trí thức và công nhân mà chính là lực lượng nông dân. Trong suốt mấy thập niên vừa qua, Cộng sản Việt Nam luôn luôn tìm mọi cách khống chế nông thôn. Ngay cả ngày hôm nay, trong lúc cổ võ cho nền kinh tế thị trường hàng hoá, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn coi trọng vấn đề kiểm soát Tam Nông: nông thôn – nông nghiệp – nông dân. Hơn một nửa hạ tầng cơ sở của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đang nằm ở nông thôn. Chính vì thế mà họ phải giữ nông thôn trong gọng kềm của đảng. Để khống chế nông thôn, Hà Nội luôn luôn tiến hành hai chính sách song hành: 1/ Bưng bít thông tin và 2/ Phủ dụ bằng những bánh vẽ phát triển. Vì không có thông tin và vốn bản chất chân chất, mộc mạc, thụ động trong nhiều thập niên dài, nông dân dễ bị cán bộ cấp địa phương trấn áp và lừa đảo mà không dám phản kháng. Có nhiều nông dân biết mình bị lừa đảo nhưng chỉ phản kháng theo hình thức cá nhân với hiện tượng dân oan đã xảy ra trong nhiều năm qua. Để đối phó với thành phần dân oan, Cộng sản Việt Nam thường áp dụng hình thức hứa cuội hay giải quyết một vài vụ đặc thù rồi dùng đó phủ dụ hầu câu giờ.

Nông dân đã biết hình thức khiếu kiện của dân oan không hiệu quả nhiều. Thay vì đi khiếu kiện theo hình thức cá nhân, nhóm, tại các văn phòng Trung ương chỉ tốn thời giờ và công sức, họ đã phản kháng bằng chính sự đứng dậy của số đông ngay tại địa phương, đối đầu trực tiếp với những cán bộ địa phương. Đây không phải là hình thức phản kháng mới lạ của nông dân. Đã từng có nhiều vụ phản kháng tập thể xảy ra trong quá khứ ở Thái Bình, Thọ Đà, Bắc Giang, Tiền Giang, Đồng Nai nhưng không có sự liên tục vì thiếu thông tin. Ngày nay, nhờ mạng lưới Internet và điện thoại di động, lòng phẫn uất tới mức "tức nước vỡ bờ", cùng với khả năng phối hợp, huy động số lượng đông đảo nông dân tham gia trong các cuộc phản kháng nên đã kéo dài nhiều ngày, liên tục ở nhiều nơi. Điểm đặc biệt là những cuộc phản kháng này đều nhắm vào ngay chính quyền địa phương để cô lập những phần tử lãnh đạo rồi sau đó mới tê liệt hóa phản ứng đàn áp của công an, cảnh sát cơ động.

Nói tóm lại, theo dõi những bản tin loan tải về các cuộc phản kháng của nông dân xảy ra ở nhiều tỉnh miền Bắc và Miền Nam gần đây, chúng ta nhận thấy nông dân đã bắt đầu thay đổi hình thức khiếu kiện sang hình thức trực diện ngay tại chỗ để bày tỏ những yêu sách chính đáng của mình, áp lực cán bộ địa phương phải giải quyết. Nông dân Hải Dương, Hưng Yên, Đồng Nai đã biết dùng thế "tiến thoái lưỡng nan" để áp lực chính quyền địa phương ngưng chính sách ăn cướp ruộng đất của dân.

Trung Điền
March 12 2009

Kháng thư của khối 8406, Tố cáo Cộng sản Việt Nam về hiểm họa cho Trung Quốc khai thác bauxite tại Tây Nguyên.

Khẩn cấp phát động phong trào cứu nguy Đất nước!

Kính thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam và Cộng đồng Dân chủ Thế giới, Kể từ sau khi thủ tướng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định số 167 ngày 01-11-2007 cho phép các nhà thầu Trung Quốc thực hiện dự án kéo dài từ 2007 đến 2015 nhằm khai thác quặng bauxite và sản xuất nhôm công suất 1.2 triệu tấn/năm tại Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông), nhiều giới Đồng bào đã lên tiếng cảnh báo về những hiểm họa có thể xảy đến cho vùng Tây Nguyên và cho cả nước. Trong cuộc họp báo đầu năm nay, vào ngày 04-02-2009, thủ tướng CSVN lại tuyên bố rằng việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên là “chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”, một lời tuyên bố cho thấy bộ Chính trị đảng CSVN, bất chấp những tiếng nói có uy tín trong lãnh vực khoa học, môi trường, văn hóa, xã hội, quân sự, an ninh, quốc phòng…, bất chấp tiếng nói đòi quyền sống của nhân dân, đặc biệt các Dân tộc thiểu số…, vẫn tiếp tục dự án này, vốn gây nhiều tranh cãi và tiềm ẩn nhiều nguy cơ rất lớn lao cho đất nước.

Theo ý kiến của các nhà khoa học và văn hóa (cụ thể qua bài “10 lý do đề nghị tạm dừng dự án bauxite Tây Nguyên” của Tiến sĩ Nguyễn Đông Hải, Nhà văn Nguyên Ngọc, Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn ngày 13-01-2009) thì (1) việc triển khai các dự án bauxite là không cần thiết, (2) không làm tăng ngân sách địa phương, (3) không hề có hiệu quả kinh tế, (4) phải đầu tư xây dựng một hệ thống đường sắt và cảng biển lãng phí, (5) không an toàn về môi sinh, (6) không phù hợp với năng lực của Tập đoàn Công nghiệp than-khoáng sản Việt Nam là chủ đầu tư, (7) không đảm bảo sinh kế cho các đồng bào dân tộc thiểu số bản địa, (8) không phát triển bền vững Tây Nguyên, (9) không mang tính công khai minh bạch, (10) không tuân thủ Luật khoáng sản và Luật bảo vệ môi trường. Tóm lại là việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên chẳng có lời mà chỉ có lỗ, lỗ lớn về mặt kinh tế, môi sinh, văn hóa, xã hội, chính trị cho toàn vùng và toàn nước.

Rồi theo ý kiến của các nhà quân sự và chính trị (cụ thể qua lá thư của thiếu tướng CSVN Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ tại Bắc Kinh, viết khoảng tháng 02-2009), thì việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên tiềm ẩn mối nguy về an ninh đất nước. Mới đây, Trung Quốc đã xây dựng căn cứ hải quân hùng mạnh ở Tam Á đảo Hải Nam không phải để chống kẻ thù xâm lược nào mà là để đe dọa Việt Nam và sẵn sàng chờ thời cơ thôn tính nốt Trường Sa của chúng ta, sau khi đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa năm 1974. Nay đảng và nhà cầm quyền CSVN lại để Trung Quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên thì sẽ có năm bảy nghìn hoặc một vạn công nhân hay quân nhân Trung Quốc (rồi có thể nhiều hơn nữa) đến cư trú và hoạt động tại đây, sẽ hình thành một "thị trấn Trung Hoa", một "căn cứ quân sự Trung Cộng" trên địa bàn chiến lược vô cùng xung yếu của Tổ quốc. Tất cả mọi chiến lược gia Việt Nam hay ngoại quốc từ xưa đến nay đều biết rằng Tây Nguyên là “nóc nhà của Đông Dương”, là yếu huyệt sinh tử, ai chiếm được nó là làm chủ toàn bộ Việt Miên Lào.

Vậy là đảng và nhà cầm quyền CSVN, từ trước tới nay, đã cam tâm nhượng cho Trung Quốc Ải Nam quan, nhiều cao điểm chiến lược ở biên giới Việt Trung là tiền đồn phía Bắc, quần đảo Hoàng Sa và một phần lớn quần đảo Trường Sa cùng chục ngàn cây số vuông biển ở Vịnh Bắc bộ là tiền đồn phía Đông. Mới đây, tháng 7-2008, CSVN lại im lặng trước việc Trung Quốc áp lực hãng dầu khí Mỹ Exxon Mobil phải rút lui, không được hợp tác với Việt Nam trong một dự án thăm dò ở lòng chảo đảo Côn Sơn, một dạng tiền đồn phía Nam của đất nước. Và bây giờ, dưới chiêu bài “khai thác mỏ bauxite”, CSVN đang âm mưu bán đứt Tây Nguyên, tiền đồn phía Tây hết sức quan trọng của Tổ quốc cho kẻ thù xâm lăng truyền kiếp của Dân tộc.

Từ đó chúng ta thấy rằng việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên chỉ là “diện”, là cái cớ bên ngoài, còn việc Trung Cộng chiếm hữu vùng đất đó làm căn cứ để thanh toán Việt Nam trong tương lai gần là “điểm”, là thực chất bên trong.

Chuỗi hành động lạ lùng và nguy hiểm này chỉ xuất phát từ một động cơ duy nhất: “mãi quốc cầu vinh” hầu kéo dài độc quyền thống trị đất nước để có thể vơ vét tài sản của người dân lâu chừng nào có thể! Như các thế hệ lãnh đạo trước đó trong đảng CSVN, nhà cầm quyền Hà Nội hiện nay, chủ yếu là 15 thành viên Bộ chính trị khóa 10, cũng là những con buôn chính trị mạt hạng nhất, đáng tởm nhất mà dân tộc và thời đại đã và đang chứng kiến! Biết rất rõ bản chất bá quyền nước lớn của Trung cộng, luôn muốn thôn tính Việt Nam từ bấy lâu nay, họ đã từng tuyên bố cách đây 30 năm, sau cuộc chiến biên giới 1979 rằng: “Chính sách ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mặc dầu được ngụy trang khéo léo như thế nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, khuất phục nhân dân Việt Nam, biến Việt Nam thành một chư hầu của Trung Quốc” (“Sự thật về quan hệ Việt Nam–Trung Quốc trong 30 năm qua”, do Bộ ngoại giao CHXHCN Việt Nam công bố. Nhà xb Sự Thật, 1979, trang 24). Thế nhưng sau khi chỗ dựa Liên xô sụp đổ, CSVN lại trở về hàng phục CSTQ một cách khiếp nhược, thích thú và hãnh diện với những lời khen tặng kiểu xoa đầu của “thiên triều Đại Hán”, qua “phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt”!

● Trước sự việc trên, Khối 8406 chúng tôi tha thiết kêu gọi Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước ý thức về nguy cơ khôn lường có thể dẫn đến mất nước này của Dân tộc (tương tự như dân Tây Tạng); đồng thời xin làm sống dậy tinh thần trách nhiệm của từng cá nhân, từng tập thể nơi các tôn giáo, các chính đảng, các giới trí thức, sinh viên, công nhân, nông dân… trước nguy cơ mất nước này. Với Kháng thư này, Khối 8406 chúng tôi:

Thứ nhất : Cực lực tố cáo âm mưu thâm hiểm của bá quyền nước lớn Trung Quốc, kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, từ hàng ngàn năm nay không ngừng nuôi mộng thôn tính Việt Nam và nay đang ngang nhiên coi thường quốc tế để ngoạm dần đất biển Tổ quốc cũng như xâm lăng về mặt văn hóa, chính trị, xã hội.

Thứ hai : Cực lực lên án hành động “mãi quốc cầu vinh” cách ngang nhiên táo tợn của đảng CSVN, cụ thể là Bộ chính trị. Hành động bán nước này đã khởi sự từ Công hàm ô nhục năm 1958, qua hai Hiệp định lãnh thổ và lãnh hải năm 1999 rồi 2000, đến lễ hoàn thành việc cắm mốc biên giới phía Bắc cuối năm 2008 mới rồi.

Thứ 3 : Kêu gọi Đồng bào Tây Nguyên, cụ thể ở Ðắc Nông và Lâm Đồng xuống đường, chống đối đến cùng việc Cộng sản cướp đất đai của Đồng bào để khai thác mỏ; nhất định không bỏ đi, không di dời, không làm tôi mọi cho CSVN và CSTQ.

Thứ 4 : Kêu gọi Đồng bào trong nước, từ các bậc tu hành, các nhà trí thức, các chiến sĩ dân chủ, đến giới công nhân viên chức, giới sinh viên học sinh… hãy đồng loạt lên tiếng để đòi lại danh dự cho Dân tộc đang bị chà đạp, để bảo vệ an ninh cho Tổ quốc đang bị coi thường bởi một nhóm lãnh đạo hèn nhát, khiếp nhược, công khai làm nô lệ cho kẻ thù!

Thứ 5 : Kêu gọi Quốc hội, lực lượng công an, lực lượng quân đội đừng hèn đến mức chấp nhận trở thành công cụ của Bộ chính trị, sẵn sàng tiếp tay cho bọn chúng ức hiếp, cướp bóc đất đai và tài sản của người dân để dâng hiến cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Trái lại, hãy can đảm và anh dũng đứng về phía nhân dân, hãy nghĩ đến vận mệnh của giống nòi, bênh vực quyền lợi của Tổ quốc, bảo toàn danh dự của chính mình và của Dân tộc.

Thứ 6 : Kêu gọi Đồng bào hải ngoại (a) phổ biến tin tức về Quốc nạn và Quốc họa này cho mọi người Việt khắp nơi trên mọi phương tiện thông tin để ai nấy cùng ý thức trách nhiệm trước hiểm họa mất nước; (b) tố cáo mưu đồ xâm lăng của Trung Cộng trước Liên Hiệp Quốc, các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các Thân hữu ngoại quốc năm châu: (c) tổ chức biểu tình liên tục trước các tòa Đại sứ, lãnh sự của CSTQ lẫn CSVN trên toàn thế giới. Ngoài những cuộc biểu tình riêng biệt, xin hãy tổ chức đồng loạt tổng biểu tình khắp nơi vào ngày 08-04-2009, ngày chào mừng 3 năm thành lập Khối đấu tranh cho Tự do Dân chủ 8406, và ngày 30-04-2009, ngày tưởng niệm 34 năm miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

Thứ 7 : Kêu gọi toàn thể Đồng bào trong và ngoài nước cùng tham gia Chiến dịch lấy chữ ký phản đối nhà cầm quyền Bắc Kinh và nhà cầm quyền Hà Nội đang đồng lõa gây hiểm họa cho Tây Nguyên và cho cả Việt Nam.

Hãy dũng cảm vùng lên, Đồng bào Việt Nam ơi!

Ðả đảo đảng CS Việt Nam bán nước cầu vinh!

Ðả đảo đảng CS Trung Quốc xâm lăng Đất tổ!

Làm tại Việt Nam ngày 15 tháng 03 năm 2009.

Ban điều hành lâm thời Khối 8406.

1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn, Việt Nam.

2- Trung tá Trần Anh Kim, Thái Bình, Việt Nam.

3- Linh mục Phan Văn Lợi, Huế, Việt Nam.

4- Giáo sư Nguyễn Chính Kết (đang vận động dân chủ tại hải ngoại) (trong sự hiệp thông của linh mục Nguyễn Văn Lý, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều chiến sĩ dân chủ khác, hiện còn đang bị giam cầm trong lao tù cộng sản.)